Lỗi phát âm là gì? Các công bố khoa học về Lỗi phát âm
Lỗi phát âm là khi người nói không phát âm một âm tiết, một từ hoặc một câu một cách chính xác theo quy tắc ngữ âm của ngôn ngữ đó. Lỗi phát âm có thể là do ngư...
Lỗi phát âm là khi người nói không phát âm một âm tiết, một từ hoặc một câu một cách chính xác theo quy tắc ngữ âm của ngôn ngữ đó. Lỗi phát âm có thể là do người nói không biết cách phát âm một từ mới, bị ảnh hưởng bởi ngữ cảnh hoặc do cách phát âm không được chuẩn xác. Lỗi phát âm cũng có thể gây hiểu lầm hoặc khó nghe hiểu khi người khác nghe.
Lỗi phát âm có thể xảy ra với các âm tiết, âm đầu, âm cuối, hay nguyên âm trong một từ hoặc câu. Dưới đây là một số ví dụ về các loại lỗi phát âm phổ biến:
1. Lỗi liên quan đến âm tiết: Đây là lỗi phổ biến nhất và thường xảy ra khi người nói không biết cách phân bố âm tiết trong một từ. Ví dụ như phân âm sai trong từ "restaurant" (/ˈrestərənt/) thành "rest-a-rant", hoặc phân âm sai trong từ "chocolate" (/ˈtʃɒklət/) thành "choco-late".
2. Lỗi phát âm âm đầu: Đây là lỗi xảy ra khi người nói không phát âm đúng âm đầu của một từ. Ví dụ, phát âm từ "ship" (/ʃɪp/) thành "sip" (/sɪp/) hoặc phát âm từ "think" (/θɪŋk/) thành "fink" (/fɪŋk/).
3. Lỗi phát âm âm cuối: Đây là lỗi phát âm xảy ra khi người nói không phát âm đúng âm cuối của một từ. Ví dụ, phát âm từ "cats" (/kæts/) thành "cat" (/kæt/) hoặc phát âm từ "bake" (/beɪk/) thành "bak" (/bæk/).
4. Lỗi phát âm nguyên âm: Đây là lỗi phát âm xảy ra khi người nói không thể phát âm đúng nguyên âm trong một từ. Ví dụ, phát âm từ "father" (/ˈfɑːðər/) thành "farter", hoặc phát âm từ "bird" (/bɜːrd/) thành "bared".
Lỗi phát âm có thể gây hiểu lầm trong giao tiếp và làm cho người nghe khó hiểu. Để cải thiện phát âm, người nói cần thực hành luyện tập ngữ âm, nghe và lắng nghe ngôn ngữ mục tiêu thường xuyên và sử dụng các nguồn tài liệu phát âm chính xác để nắm vững quy tắc và cách phát âm các âm tiết và từ ngữ.
Dưới đây là một số lỗi phát âm chi tiết hơn:
1. Lỗi phát âm âm cuối:
- Phát âm âm cuối -ed: Khi động từ kết thúc bằng âm /t/ hoặc /d/, người học tiếng Anh thường gặp khó khăn trong việc phát âm âm cuối -ed của quá khứ đơn và quá khứ phân từ của động từ. Ví dụ: phát âm "fixed" (/fɪkst/) thành "fixt", phát âm "played" (/pleɪd/) thành "playd".
- Phát âm âm cuối -s: Khi danh từ số nhiều hoặc động từ ngôi thứ ba số ít kết thúc bằng âm /s/, người học tiếng Anh có thể phát âm sai hoặc không phát âm âm cuối -s này. Ví dụ: phát âm "cats" (/kæts/) thành "cat", phát âm "runs" (/rʌnz/) thành "run".
2. Lỗi phát âm nguyên âm:
- Lỗi phát âm /ɪ/ và /iː/: Tiếng Anh có hai nguyên âm tương đối tương tự nhưng có điểm phát âm khác biệt là /ɪ/ và /iː/. Khi người học phát âm không chính xác, có thể dẫn đến hiểu lầm từ và khó nghe hiểu. Ví dụ: phát âm "sit" (/sɪt/) thành "seat", phát âm "sheet" (/ʃiːt/) thành "shit".
- Lỗi phát âm /æ/ và /ɑː/: Tiếng Anh có hai nguyên âm khá khác biệt là /æ/ (như trong từ "cat") và /ɑː/ (như trong từ "car"). Khi người nói phát âm không đúng thì từ ngữ trở nên khó hiểu. Ví dụ: phát âm "cat" (/kæt/) thành "cot", phát âm "car" (/kɑːr/) thành "cot".
3. Lỗi ngữ điệu và trọng âm:
- Ngữ điệu sai: Ngữ điệu đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đạt ý nghĩa và cảm xúc thông qua giọng điệu của người nói. Khi người nói không sử dụng ngữ điệu phù hợp, có thể dẫn đến hiểu lầm hoặc không rõ ý nghĩa của câu. Ví dụ: phát âm câu "It's a beautiful day" mà giọng âm không phù hợp, có thể làm người nghe hiểu nhầm là "It's a beautiful day?" (như câu hỏi).
Lỗi phát âm là một quá trình học tập liên tục và cần thời gian và luyện tập để cải thiện. Quan trọng nhất là lắng nghe và quan sát ngữ âm mẫu, sử dụng nguồn tài liệu phát âm đáng tin cậy, và tham gia vào các hoạt động thực hành phát âm để nâng cao kỹ năng phát âm của mình.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "lỗi phát âm":
Thioflavine T (ThT) liên kết nhanh chóng với các sợi kết tụ của các peptide được chiết xuất từ
Đánh giá Phát triển và Phúc lợi (DAWBA) là một gói câu hỏi, phỏng vấn và kỹ thuật chấm điểm mới nhằm tạo ra các chẩn đoán tâm thần theo ICD-10 và DSM-IV cho trẻ em 5 tuổi. Các phỏng vấn viên không chuyên tiến hành một cuộc phỏng vấn theo cấu trúc với cha mẹ về các triệu chứng tâm thần và ảnh hưởng của chúng. Khi các triệu chứng rõ ràng được xác định qua các câu hỏi theo cấu trúc, các phỏng vấn viên sử dụng các câu hỏi mở và yêu cầu bổ sung để cha mẹ mô tả các vấn đề bằng lời của họ. Những mô tả này được ghi lại nguyên văn bởi các phỏng vấn viên nhưng không được đánh giá bởi họ. Một cuộc phỏng vấn tương tự được tiến hành với trẻ 11-16 tuổi. Giáo viên hoàn thành một bảng hỏi ngắn bao gồm các triệu chứng hành vi, cảm xúc và hiếu động chính cũng như bất kỳ trở ngại nào mà trẻ gặp phải. Các loại thông tin khác nhau được tổng hợp lại bởi một chương trình máy tính cũng dự đoán các chẩn đoán có thể xảy ra. Những tờ tóm tắt và chẩn đoán do máy tính tạo ra hình thành nên một điểm khởi đầu thuận tiện cho các đánh giá viên lâm sàng có kinh nghiệm, những người quyết định liệu có chấp nhận hoặc lật lại chẩn đoán của máy tính (hoặc thiếu chẩn đoán) dựa trên đánh giá của họ về tất cả các dữ liệu, bao gồm cả bản sao. Trong nghiên cứu hiện tại, DAWBA đã được thực hiện trên các mẫu cộng đồng (
Bằng chứng ngày càng tăng hỗ trợ quan điểm rằng sự tương tác giữa sự tiếp xúc với bất lợi trong giai đoạn chu sinh và các yếu tố di truyền cá nhân có thể tăng cường độ nhạy cảm của một cá nhân đối với việc biểu hiện các tình trạng tâm lý và sinh lý trong suốt cuộc đời. Môi trường sớm dường như lập trình một số khía cạnh của sự phát triển thần kinh sinh học và, ngược lại, phát triển hành vi, cảm xúc, nhận thức và sinh lý. Nhiều mô hình chuột và linh trưởng về trải nghiệm bất lợi sớm đã được phân tích trong bài đánh giá này, bao gồm những mô hình “mô phỏng” sự tách rời hoặc mất mát của mẹ, lạm dụng hoặc bỏ mặc, và sự thiếu thốn xã hội. Bằng chứng tích lũy cho thấy những trải nghiệm chấn thương sớm này liên quan đến những thay đổi lâu dài trong phong cách đối phó, điều chỉnh cảm xúc và hành vi, khả năng phản ứng thần kinh nội tiết với căng thẳng, “sự thích ứng” xã hội, chức năng nhận thức, hình thái não, hóa học thần kinh, và mức độ biểu hiện của các gen trong hệ thần kinh trung ương có liên quan đến các rối loạn lo âu và tâm trạng. Các nghiên cứu đang được tiến hành để xác định các khía cạnh quan trọng của trải nghiệm bất lợi sớm, chẳng hạn như (a) sự tồn tại của các “giai đoạn nhạy cảm” trong phát triển liên quan đến những thay đổi trong các hệ thống đầu ra cụ thể, (b) sự hiện diện của “cơ hội” trong đó các can thiệp mục tiêu (ví dụ: nuôi dạy tích cực hoặc môi trường hỗ trợ - phong phú) có thể ngăn ngừa hoặc đảo ngược sự rối loạn, (c) danh tính của các đa hình gene góp phần vào sự biến đổi của cá nhân trong độ nhạy cảm, và (d) cách thức để chuyển dịch thời điểm của các “giai đoạn nhạy cảm” phát triển này qua các loài.
Trong hơn một thập kỷ qua, hoạt động khai thác khoáng sản đã có sự phát triển mạnh mẽ tại nhiều quốc gia đang phát triển. Bài viết này xem xét những xu hướng gần đây và mô tả các cuộc tranh luận cũng như xung đột mà chúng đã gây ra. Tác giả đánh giá bằng chứng liên quan đến các cuộc tranh luận về lời nguyền tài nguyên và khả năng của một con đường phát triển dẫn dắt bởi khai thác tài nguyên. Từ đó, họ mô tả các loại kháng cự và sự di động xã hội khác nhau đã xuất hiện đối với sự mở rộng khoáng sản ở nhiều quy mô địa lý, và xem xét mức độ mà những cuộc biểu tình này đã thay đổi mối quan hệ giữa khai thác khoáng sản và thay đổi kinh tế chính trị. Những kết luận đề cập đến mức độ những cuộc biểu tình này có thể góp phần vào việc ‘thoát khỏi’ lời nguyền tài nguyên, và cân nhắc các tác động đối với nghiên cứu và các chương trình chính sách.
Nhiều nghiên cứu đã thiết lập mối tương quan giữa các vấn đề đọc sớm và sự thiếu hụt trong một số kỹ năng ngôn ngữ nói nhất định, chẳng hạn như khả năng nhận thức cấu trúc âm tiết của các từ nói, và khả năng giữ lại một chuỗi từ trong trí nhớ ngắn hạn bằng lời nói. Một nghiên cứu theo chiều dọc hiện nay chỉ ra rằng hiệu suất kém trong các bài kiểm tra mẫu giáo của những kỹ năng này có thể dự báo các vấn đề đọc trong lớp một. Dựa trên những phát hiện này, các quy trình được đề xuất cho việc sàng lọc ở mẫu giáo và một số cách để hỗ trợ trẻ em, những người mà do hiệu suất kém trong các bài kiểm tra này có thể được coi là có nguy cơ thất bại trong việc đọc.
Bài báo này xem xét những phát triển chính trong một thập kỷ nghiên cứu về ly hôn, tái hôn và gia đình kế. Tỷ lệ ly hôn đang giảm nói chung, nhưng vẫn ở mức cao và đã tăng lên ở những người trên 50 tuổi. Tỷ lệ tái hôn đã giảm, nhưng tỷ lệ tổng thể các cuộc hôn nhân là tái hôn đang gia tăng. Sự chuyển tiếp trong mối quan hệ của cha mẹ vẫn liên quan đến sự giảm sút trong phúc lợi của trẻ em, nhưng các mô hình ly hôn và tái hôn đang thay đổi trong thập kỷ qua cũng đã định hình lại đời sống gia đình của người lớn tuổi. Chúng tôi xem xét các nghiên cứu về các yếu tố dự đoán và hậu quả của những xu hướng này và xem xét những gì chúng tiết lộ về ý nghĩa đang thay đổi của hôn nhân như một thể chế. Nhìn chung, các nghiên cứu gần đây về ly hôn, tái hôn và gia đình kế chỉ ra rằng hôn nhân vẫn tồn tại như một thể chế phân tầng và phân loại, đồng thời chỉ ra rằng độ phức tạp nhân khẩu học của đời sống gia đình sẽ vẫn tiếp tục tồn tại.
Bối cảnh.—Các bệnh nhân mắc hội chứng Down sống đến tuổi trung niên đều phát triển những đặc điểm bệnh lý thần kinh của bệnh Alzheimer, tạo ra một tình huống độc đáo để nghiên cứu sự phát triển sớm và liên tiếp của những thay đổi này.
Mục tiêu.—Nghiên cứu sự phát triển của các mảng bám amyloid, các mảng bám già (senile plaques), phản ứng của tế bào thần kinh đuôi (astrocytes) và tế bào microglia, cũng như các búi sợi thần kinh (neurofibrillary tangles) trong não của những cá nhân trẻ tuổi (<30 tuổi) mắc hội chứng Down.
Phương pháp.—Nghiên cứu mô học và nghiên cứu hóa miễn dịch tế bào của một loạt các bộ não từ pháp y (n = 14, từ các đối tượng từ 11 tháng đến 56 tuổi, trong đó có 9 đối tượng <30 tuổi) được khảo sát tại Văn phòng Giám đốc Y tế của Bang Maryland và Bệnh viện Johns Hopkins.
Kết quả.—Những quan sát chính bao gồm sự hiện diện của sự nhuộm Aβ nội tế bào trong hồi hải mã và vỏ não của các bệnh nhân hội chứng Down rất trẻ (trước sự lắng đọng Aβ ngoại bào) và sự hình thành các mảng bám già và các búi sợi thần kinh.
Kết luận.—Chúng tôi đề xuất chuỗi sự kiện sau trong sự phát triển của những thay đổi bệnh lý thần kinh của bệnh Alzheimer ở hội chứng Down: (1) tích lũy Aβ nội bào trong các tế bào thần kinh và tế bào đuôi, (2) lắng đọng Aβ ngoại bào và hình thành các mảng bám khuếch tán, và (3) phát triển các mảng bám thần kinh và các búi sợi thần kinh với sự kích hoạt của các tế bào microglia.
<p>Sự giải quyết thành công các nhiệm vụ phát triển trong thời thơ ấu từ lâu đã được công nhận là rất quan trọng đối với sức khỏe tâm thần của người lớn. Cụ thể, các nhà lý thuyết như Sigmund Freud, Erik Erikson và Jean Piaget cho rằng việc thương lượng các giai đoạn phát triển con người tạo điều kiện cho sự thích ứng tâm lý xã hội và nhận thức, đồng thời là rất cần thiết cho sự xuất hiện của sự sáng tạo trong suốt cuộc đời. Ngược lại, nhiều nghiên cứu gần đây xác nhận những hậu quả tiêu cực của các sự kiện bất lợi trong thời thơ ấu đối với khả năng hoạt động trong suốt quãng đời. Bài tổng quan này xem xét mối liên hệ giữa các sự kiện bất lợi trong thời thơ ấu (bao gồm lạm dụng cảm xúc, thể xác và tình dục; sự bỏ bê; sự rối loạn trong gia đình trong thời thơ ấu; và các hình thức chấn thương thời thơ ấu khác) và sự phát sinh các triệu chứng tâm thần trong suốt quãng đời.</p><h4>GIỚI THIỆU VỀ CÁC TÁC GIẢ</h4><p>Daniel P. Chapman, Tiến sĩ, Thạc sĩ Khoa học; Shanta R. Dube, Tiến sĩ, Thạc sĩ Y tế Công cộng; và Robert F. Anda, Bác sĩ, Thạc sĩ Khoa học, đang làm việc tại Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, Trung tâm Quốc gia về Phòng ngừa Bệnh mãn tính và Thúc đẩy Sức khỏe, Bộ phận Sức khỏe Người lớn và Cộng đồng, Nhánh Điều tra và Phân tích Mới nổi, Atlanta, GA.</p><p>Địa chỉ liên hệ: Daniel P. Chapman, Tiến sĩ, Thạc sĩ Khoa học, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, Trung tâm Quốc gia về Phòng ngừa Bệnh mãn tính và Thúc đẩy Sức khỏe, Bộ phận Sức khỏe Người lớn và Cộng đồng, Nhánh Điều tra và Phân tích Mới nổi, 4770 Buford Hwy N.E., Mailstop K-67, Atlanta, GA 30341; fax 770-488-5965; hoặc email: <a href="mailto:[email protected]">[email protected]</a>.</p><p>Các tác giả không công bố bất kỳ mối quan hệ tài chính nào có liên quan.</p><p>Các phát hiện và kết luận trong bài viết này là của các tác giả và không nhất thiết đại diện cho quan điểm của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh.</p>
Nhân loại đang phải đối mặt với thách thức toàn cầu về tài nguyên nước ngày càng cạn kiệt và tình hình trở nên nghiêm trọng hơn do dân số tăng lên dẫn đến ô nhiễm nước quá mức. Nanofiltration là một công nghệ dựa trên màng quan trọng trong việc sản xuất nước sạch và nước uống cho các hoạt động sinh hoạt và công nghiệp. Các màng nanofiltration composite màng mỏng polyamide siêu liên kết (HCPA-TFC-NF) đã được tạo ra bằng cách sử dụng amin đa chức năng
Mặc dù sự tích hợp các môn học trong chương trình giảng dạy đã được thúc đẩy trong những năm gần đây, nhưng có rất ít cơ hội để các giáo viên của các môn học khác nhau thực hiện liên kết chương trình giảng dạy trong trường học một cách hợp tác. Trong bài báo này, chúng tôi xem xét lịch sử như một môn nhân văn có thể được tích hợp với STEM và khám phá các mục tiêu học tập liên quan đến lịch sử đa dạng có trong tài liệu giảng dạy STEAM do giáo viên phát triển. Sử dụng các chương trình giảng dạy STEAM tích hợp được phát triển bởi 13 nhóm giáo viên liên môn học ở Hàn Quốc, chúng tôi phân tích việc trình bày các mục tiêu học tập liên quan đến lịch sử trong chương trình giảng dạy và báo cáo một số mô hình đáng chú ý trên các chương trình giảng dạy này. Trước hết, phần lớn các chương trình giảng dạy nhắm đến việc người học tự định hướng trong lịch sử vùng miền và quốc gia của họ, nhưng cũng có những cấp độ định hướng khác. Thứ hai, tất cả các chương trình giảng dạy đều bao gồm các mục tiêu liên quan đến kỹ năng phân tích lịch sử, đôi khi được kết hợp với các kỹ năng tìm hiểu khoa học. Thứ ba, chúng tôi phát hiện ra một số mục tiêu liên quan đến sự phản ứng đạo đức của học sinh đối với lịch sử, đặc biệt là khi chủ đề chương trình giảng dạy liên quan đến các vấn đề ở cấp độ quốc gia. Thứ tư, sự tích hợp các môn học cho phép thể hiện sự hiểu biết lịch sử của người học thông qua các hoạt động đa dạng và dưới nhiều hình thức giải thích, thuyết phục và tưởng tượng. Tổng quan, phân tích chỉ ra một số cách mà các mục tiêu học tập lịch sử có thể tương tác với các mục tiêu học tập STEM, điều này có thể hữu ích cho nghiên cứu và thực hành tích hợp chương trình giảng dạy trong tương lai. Chúng tôi cũng thảo luận một số thách thức tiềm năng của việc tích hợp lịch sử với STEM, như những vấn đề có thể phát sinh từ việc sử dụng 'quốc gia' như một ngữ cảnh cho học tập STEAM.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10